Tổng quan Thành phố Bảo Lộc

Đầu tiên, chúng ta hãy cùng điểm qua một số nét sơ lược tại Bảo Lộc. Theo như thông tin thì Thành phố Bảo Lộc ngày nay (lúc trước là B’Lao) chính là một trong hai trung tâm lớn của tỉnh Lâm Đồng nằm trên cao nguyên Di Linh – Bảo Lộc, với độ cao dao động trong khoảng 800 – 1.000m, phía bắc, phía đông và phía nam đều giáp huyện Bảo Lâm, phía tây và tây nam giáp huyện Đạ Huoai, Lâm Đồng.

Bảo Lộc có diện tích tự nhiên lên đến 232,4km2, nơi đây có tất cả 11 đơn vị hành chính bao gồm 6 phường (phường B’Lao, phường 1, phường 2, Lộc Phát, Lộc Tiến, Lộc Sơn) và 5 xã (Lộc Nga, Lộc Châu, Đam Bri, Lộc Thanh, Đại Lào), có thể nói nơi đây các đơn vị hành chính được phân bổ khá đồng đều và hợp lý.

Tổng quan Thành phố Bảo Lộc

Thành phố Bảo Lộc chính là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, công nghiệp xếp vào vị trí thứ hai của tỉnh Lâm Đồng, tốc độ phát triển và đô thị hóa chỉ đứng sau Đà Lạt.

Vào giai đoạn gần cuối thập kỉ 50 của thế kỉ 20, Bảo Lộc đã vinh dự được chọn làm tỉnh lỵ của tỉnh Lâm Đồng cũ, một vùng đất rộng lớn, trù phú của tỉnh Đồng Nai Thượng ngày xưa, bao gồm tất cả các huyện Đạ Huoai, Đạ Tẻh, Cát Tiên và thêm huyện Bảo Lâm mới được tách ra và thành lập vào khoảng thời gian sau này. Theo như chia sẻ của các cụ già đã bám trụ lâu dài tại nơi đây thì được biết rằng vùng đất Bảo Lộc xưa là nơi sinh sống chủ yếu của người Mạ.

Từ giai đoạn chiến tranh, nước ta được đặt dưới sự cai trị của Pháp thì Bảo Lộc đã được người Pháp đặt vấn đề khai thác khá sớm cùng một lúc với việc xây dựng đô thị Đà Lạt, tuy nhiên không may mắn được như “thành phố sương mù” nơi đây phát triển khá chậm.

Một số cột mốc lịch sử quan trọng Bảo Lộc

Vào khoảng cuối thế kỉ 19 – đầu thế kỉ 20, một phái đoàn người Pháp do ông Ernest Outrey chỉ huy mở một cuộc thám hiểm tìm hiểu khả năng vùng Đồng Nai Thượng và vạch một con đường nối liền vùng này với Bình Thuận, có thể nói lúc này người Pháp đã nhìn ra được sự phát triển mạnh mẽ trong tương lai của vùng đất Bảo Lộc.

Vào thời điểm ngày 1-11-1899, Toàn quyền Paul Doumer đã ký Quyết định thành lập tỉnh Đồng Nai Thượng, đặt tỉnh lỵ tại Djiring, mở ra tương lai cho một vùng đất mới phát triển sôi nổi như bây giờ. Khoảng 6 năm sau cụ thể là vào năm 1905, thì tỉnh Đồng Nai Thượng chính thức bị bãi bỏ và được sáp nhập chính thức vào tỉnh Bình Thuận.

Cho đến năm 1920, Đồng Nai Thượng một lần nữa được tái lập, gồm có 3 quận: B’Lao (Bảo Lộc), Djiring (Di Linh) và Dran – Fyan (Đơn Dương) chính là Bảo Lộc, Di Linh, Đơn Dương bây giờ.

Đến thời điểm vào ngày 19-5-1958, chính quyền Ngô Đình Diệm đã ra quyết định đổi tên tỉnh Đồng Nai Thượng là Lâm Đồng và sau đó tách quận Dran ra khỏi tỉnh Lâm Đồng, sáp nhập vào tỉnh Tuyên Đức.

Như thế thì Lâm Đồng chỉ còn lại 2 quận đó chính là Bảo Lộc và Di Linh. Đến cuối tháng 11-1958, Bảo Lộc được chọn làm tỉnh lỵ của tỉnh Lâm Đồng và công việc kiến thiết mở mang đô thị mới cũng bắt đầu phát triển mạnh từ thời gian này, đây cũng chính là cột mốc quan trọng có sức ảnh hưởng mạnh mẽ góp phần tạo nên một Bảo Lộc như ngày hôm nay.

Khi đất nước thống nhất trở lại, Bảo Lộc lần lượt ra quyết định tách thành các huyện Bảo Lộc, Đạ Huoai, Đạ Tẻh, Cát Tiên. Cho đến thời điểm 11-7-1994, Chính phủ quyết định chia huyện Bảo Lộc thành 2 đơn vị hành chính là thị xã Bảo Lộc và huyện Bảo Lâm và thị xã Bảo Lộc chính là thành phố Bảo Lộc của ngày hôm nay.

Vùng đất Bảo Lộc nằm ở độ cao 900m, với khí hậu quanh năm mát mẻ, không lạnh lắm cũng không nóng lắm, nhiệt độ trung bình dao động khoảng từ 22 – 24 độ C. Nơi đây có một thời tiết khá lý tưởng rất thích hợp để nghĩ dưỡng, giải tỏa căng thẳng.

Với đặc tính vùng miền cùng với khí hậu, Bảo Lộc có lượng mưa khá lớn (trung bình khoảng 2.762mm), hầu như các tháng trong năm đều có mưa. Với Biên độ nhiệt giữa tháng mưa và tháng nắng là 3 – 4 độ C không quá cao so với các địa phương khác và với biên độ nhiệt giữa ngày và đêm khá lớn, trung bình là 10,3 độ C.

Với những địa phương thuộc tỉnh Lâm Đồng thì sương mù xuất hiện ở Bảo Lộc nhiều nhất tỉnh do độ ẩm cao, trung bình mỗi năm có 85 ngày có sương mù tập trung vào những tháng cuối mùa mưa, tần suất xuất hiện sương mù khá dày đặc.

Thành phố Bảo Lộc khá nổi tiếng với các địa danh như đèo Bảo Lộc, thác Đam Bri, hồ Nam Phương, suối Đá Bàn, núi Đại Bình, suối Tân Thanh,… Ngoài các thắng cảnh thiên nhiên đó là những vườn, đồi trà thoai thoải xanh mượt, thỉnh thoảng vươn lên những hàng cây che bóng, phía sau là những ngọn núi cao đã làm cho Bảo Lộc càng thêm xinh đẹp, bao la, trù phú, vẻ đẹp nơi đây cũng không kém bao nhiu so với thành phố Đà Lạt thơ mộng.

Tiềm năng khoáng sản khá phong phú, Bảo Lộc có than nâu, than bùn, khoáng sản kim loại như quặng bauxit, đá xây dựng, đá ốp lát, sét gạch ngói. Đặc biệt trữ lượng boxit lớn đứng thứ hai trong cả nước chỉ sau huyện Dak Nông (tỉnh Đắc Lắc), với ưu thế khoáng sản phong phú cũng góp phần tạo nên một Bảo Lộc tuyệt vời như ngày hôm nay.

Bên cạnh đó, hệ thống nước mặt của Bảo Lộc khá phong phú nhờ có hệ thống sông La Ngà (Đa R’Nga) và hệ thống suối Đạ Bình là nguồn nước tưới cho nông nghiệp và nước phục vụ cho khu công nghiệp Đại Bình và Đại Lào trong tương lai, chính lượng nước dồi dào giúp việc tưới tiêu thuận tiện hơn bao giờ hết.

Từ xa xưa, Bảo Lộc đã có nhiều kinh nghiệm và lợi thế trong việc khai thác nước ngầm vì nguồn nước phong phú, đầu tư ít tốn kém, nên vấn đề này nơi đây phát triển khá tốt.

Về thổ nhưỡng: Đất của thành phố Bảo Lộc có 4 nhóm gồm 8 loại đất chính, trong đó đất feralit trên bazan chiếm tỉ lệ lớn, rất thuận lợi để trồng cây công nghiệp dài ngày, đây là một ưu thế rất lớn trong việc phát triển nông nghiệp. Ngoài ra thổ nhưỡng khá đa đạng bao gồm: đất dốc tụ, đất phù sa, đất nâu vàng trên bazan, đất nâu đỏ trên bazan, đất nâu vàng trên đaxit và các loại đất khác.

Theo thống kê thì UBND thành phố Bảo Lộc quản lý 1.256ha đất có rừng và 2.000ha đất trống cụ thể trữ lượng gỗ ước tính 180.000m3, phần lớn diện tích rừng của Bảo Lộc được phát triển thành rừng đặc dụng.

Vào năm 1999, thì dân số Bảo Lộc có 135.313 người. Dân số Bảo Lộc chia làm 3 nhóm chính:

Xét về các dân tộc bản địa thì dân tộc Mạ chiếm tỷ lệ cao nhất (từ xa xưa đến giờ tỷ lệ này vẫn không thay đổi). Đã từ rất lâu về trước, buôn làng người Mạ là tổ chức xã hội  duy nhất có tính xã hội tương đối hoàn chỉnh, tương đối độc lập và tách biệt khép kín về khu vực canh tác, khu vực cư trú. Do ảnh hưởng của yếu tố trên cho nên đến bây giờ thì dân tộc này vẫn là một bộ phận vẫn còn sản xuất theo lối tự nhiên, cuộc sống còn khá khó khăn, vất vả.

Bên cạnh đó thì dân tộc Kinh đến Bảo Lộc trước năm 1975 (trước khi giải phóng) thường sống tập trung ở các phường Lộc Tiến, Lộc Phát, xã Lộc Châu, Lộc Thanh, Lộc Nga, sống tập trung dọc tuyến quốc lộ 20, được đầu tư cơ sở hạ tầng khá, tiếp cận sớm với cơ chế thị trường, năng động, có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất, kinh doanh, có thể nói rằng dân tộc Kinh có cuộc sống phát triển khá ổn định tại nơi đây.

Song song đó, còn có người Kinh đến Bảo Lộc sau năm 1975 bao gồm nhiều tỉnh thành của cả nước đến lập nghiệp, đã có những đóng góp nhất định về phát triển kinh tế – xã hội, an ninh chính trị, trật tự xã hội, họ đã góp phần to lớn trong việc tạo nên một diện mạo mới cho Bảo Lộc.

Nhận thấy nơi đây phát triển khá tốt nên dân cư kéo đến khá ồ ạt, dẫn đến thiếu vốn đầu tư và kết cấu hạ tầng chậm phát triển nên đời sống còn gặp nhiều khó khăn, do hạ tầng không phát triển kịp với sự tăng trưởng dân cư. Có thể nói họ là một cộng đồng dân cư đa dạng, chưa thuần nhất, đa số chưa có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất  hàng hoá, tư duy phát triển kinh tế còn hạn chế, chưa có nhiều phát minh nổi trội.

Thành phố Bảo Lộc tọa lạc trong vùng khí hậu nhiệt đới biến thiên theo độ cao nên khí hậu ôn hòa, phù hợp với việc phát triển du lịch, nghỉ dưỡng, chính vì thế những năm gần đây nơi này phát triển du lịch rất sôi nổi. Còn về khí hậu và đất đai tại Bảo Lộc rất thuận lợi cho việc phát triển các loại cây công nghiệp dài ngày, nơi đây gây ấn tượng mạnh mẽ vì phát triển khá nhiều cây công nghiệp dài ngày, đa dạng chủng loại.

Về vấn đề hạ tầng giao thông, Bảo Lộc nằm trên luồng giao thông trao đổi hàng hoá giữa các vùng kinh tế trong tỉnh và giữa Lâm Đồng với miền Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu Long và nhất là Thành phố Hồ Chí Minh. Chính những điều kiện quan trọng này đã giúp Bảo Lộc phát triển nhanh kinh tế hàng hoá, tiếp nhận nhanh những tiến bộ khoa học – công nghệ.

Không giống với Đà Lạt, Bảo Lộc được khai thác mạnh về nông nghiệp, công nghiệp hơn là du lịch. Có rất nhiều nông trang, đồn điền đã được các tập đoàn người Pháp lập nên từ những năm 1930 -1940 để trồng chè, cà phê,…do đó nơi đây đã có một bề dày lịch sử trong việc phát triển nông nghiệp. Sau này, khi ta giành lấy lại quyền cai trị thì nhân dân chuyển dần sang phát triển trồng cây dâu tằm và cây ăn quả.

Một số loại cây trồng phát triển tại Bảo Lộc

Có thể nói,  cây chè có một lịch sử khá lâu đời tại Bảo Lộc (trên 50 năm) đã khẳng định ưu thế tuyệt đối mặc dù có những bước thăng trầm nhất định do nhiều yếu tố khác nhau, nó được xem như là một biểu tượng của Bảo Lộc. Tính đến thời điểm này, cây chè Bảo Lộc vẫn tiếp tục phát triển, được đầu tư mở rộng về diện tích và sản lượng.

Cuối thế kỉ 20, Bảo Lộc có tất cả 8.743ha chè với sản lượng 45.311 tấn chè búp tươi, trong đó khu vực quốc doanh đã chiếm gần 20% diện tích và 70% công suất chế biến, một tỉ trọng khá lớn.

Tại thành phố Bảo Lộc đã hình thành vùng sản xuất tập trung chuyên môn hoá cao, gắn được sản xuất nguyên liệu với công nghiệp chế biến, đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng trong và ngoài nước, khách du lịch đến từ các quốc gia khá thích vị chè đặc trưng tại nơi đây. Biểu tượng cây chè Bảo Lộc gần như chiếm vị trí độc quyền ở các tỉnh phía Nam, khó có hương vị nào sánh bằng.

Ngoài ra, thị trường xuất khẩu chè được tiếp tục mở sang các nước Cộng hoà Liên bang Nga, Pháp, châu Á – Thái Bình Dương, Ấn Độ, Singapore, Hồng Kông, Đài Loan, Ả Rập,…việc xuất khẩu đang có dấu hiệu rất tốt, hứa hẹn sẽ còn mở rộng quy mô thêm nữa.

Theo thống kê thì số lượng cây cà phê được gieo trồng và phát triển tại vùng đất Bảo Lộc có diện tích lên đến 6.144ha cà phê với sản lượng 8.478 tấn cà phê nhân hàng năm đủ đáp ứng nhu cầu trong và ngoài nước, lần lượt đứng sau các địa phương Di Linh, Lâm Hà và Bảo Lâm. Cà phê từ lâu đã là một loại nông sản mang lại giá trị xuất khẩu cao, đặc biệt thích hợp với điều kiện khí hậu, đất đai, thổ nhưỡng tại Bảo Lộc.

Một trong những loại cây được phát triển rất nhiều đó chính là dâu: đây là một trong những địa phương có điều kiện để đưa ngành dâu tằm tơ trở thành ngành kinh tế – kỹ thuật tiên tiến, có quy mô lớn, khép kín từ khâu nuôi tằm đến ươm tơ, dệt lụa, vì thế sản phẩm tơ lụa được ra mắt thị trường rất được người tiêu dùng đánh giá cao.

Trong khoảng thời gian hiện nay do được sự đầu tư của Trung ương và địa phương, Liên hiệp Dâu tằm tơ Việt Nam là trung tâm thu hút vốn đầu tư kỹ thuật đã hình thành hệ thống công nghiệp cũng như kết cấu hạ tầng hoàn chỉnh, đây chính là một trong những cơ hội tuyệt vời giúp ngành tơ tằm tại nơi đây vươn mình phát triển hơn nữa.

Ảnh hưởng từ một số điều kiện bất lợi, thị trường thế giới biến động mạnh, diện tích trồng dâu nuôi tằm ở Bảo Lộc đã giảm sút đáng kể, từ 5.820 tấn lá dâu năm 1995 sụt xuống còn 3.483 tấn  năm 1999 chỉ trong khoảng 4 năm ngắn ngủi sản lượng đã sụt giảm gần 3000 tấn, một dấu hiệu đáng lo ngại cần phải được chính quyền địa phương quan tâm và điều tiết lại cho phù hợp.

Bên cạnh các loại cây trồng được liệt kê ở trên thì cây ăn quả cũng rất thích hợp và đem lại hiệu quả cao nhờ có đặc điểm là cho sản phẩm trái mùa với các tỉnh phía Nam có thể điểm qua một số loại cây trồng phổ biến đó chính là bơ, mít, sầu riêng,… cùng nhiều loại cây thơm ngon và mang đến giá trị kinh tế cao khác.

Bên cạnh việc phát triển trồng trọt thì chăn nuôi gia súc gia cầm ở Bảo Lộc cũng được đầu tư phát triển khá mạnh bao gồm: 2.496 con bò, 25.951 con heo (năm 1999). Không dừng lại ở những điều này, trong tương lai chăn nuôi tại Bảo Lộc hứa hẹn sẽ đem lại một nguồn doanh thu khủng tại vùng đất này.

Chúng ta cùng điểm qua lợi thế phát triển về công nghiệp chế biến chè được hình thành và phát triển trên địa bàn Bảo Lộc từ những năm 30 của thế kỷ XX cùng với sự khám phá và khai thác cao nguyên Di Linh – Bảo Lộc của người Pháp, hiện tại lĩnh vực này đã trở thành một nền kinh tế quan trọng không chỉ riêng đối với Bảo Lộc mà đối với tỉnh Lâm Đồng và khu vực phía Nam.

Một số nhà máy chè: 19-5, 1-5, 26-3, 28-3, Hà Giang, Minh Rồng, Chè xanh I và II,… phân bổ rộng khắp đã nói lên thế mạnh về công nghiệp chế biến chè ở Bảo Lộc. Song song đó, các nhà máy quốc doanh còn có hàng trăm cơ sở chế biến tư nhân cũng đã hoạt động hết sức sôi động, góp phần tạo nên một thị trường kinh tế hết sức tiềm năng và nhộn nhịp.

Ngành công nghiệp ươm tơ dệt lụa cũng được đầu tư khá mạnh mẽ với Xí nghiệp ươm tơ dệt lụa tự động Tháng 8, Xí nghiệp dệt lụa VIKOTEX, Xí nghiệp chế biến tằm tơ Bảo Lộc, Xí nghiệp dệt VISINTEX, Xí nghiệp Việt Ý, Xí nghiệp dâu tằm tơ Lộc Đức, Xí nghiệp giống cấp II, Xí nghiệp se tơ,… đây chính là một số minh chứng tuyệt vời về sự phát triển mạnh mẽ của lĩnh vực này tại Bảo Lộc.

Một số lĩnh vực cũng bắt đầu lóe sáng như công nghiệp chế biến lâm sản, công nghiệp khai khoáng, công nghiệp giấy,… cũng đã có bước đi chập chững nhưng vô chắc chắn, dự đoán sẽ bùng nổ trong tương lai.

Nơi đây chính là xứ sở của những đồi chè, dốc núi thoai thoải tạo cảm giác thư giãn đến tột cùng vì thế ngành dịch vụ du lịch, trong hai năm 1994 và 1995, chiếm tỷ trọng 32-33% GDP và tỷ lệ huy động vào ngân sách đã đạt 30% so với toàn thị xã, một con số đáng được ghi nhận. Vào năm 1995, tổng thu ngành khách sạn ăn uống lên tới 22,8 tỷ, vận tải bưu điện 13 tỷ, thương mại dịch vụ 53 tỷ trong đó thì toàn thị xã có 14 khách sạn, nhà nghỉ, nhà trọ và các hình thức nghỉ dưỡng khác.

Lĩnh vực bưu chính – viễn thông cũng được chú trọng đầu tư phát triển mạnh, đạt chỉ tiêu 7 máy/100 dân; tổng đài điện tử EWSD 3.000 số phục vụ thông tin liên lạc trực tiếp trong và ngoài nước, mạng lưới thông tin liên kết rộng khắp tạo điều kiện thuận lợi cho người dân.

Kéo theo đó ngành phát thanh – truyền hình cũng không ngừng lớn mạnh, toàn thị xã có 1 đài phát thanh – truyền hình và 9 đài truyền thanh ở các xã, phường, giúp kết nối Bảo Lộc với đa số địa phương trên cả nước.

Lĩnh vực giáo dục cũng được quan tâm, chú trọng đầu tư điển hình cho hệ thống giáo dục mẫu giáo, phổ thông phát triển tốt. Cuối thế kỉ 20 đầu thế kỉ 21, toàn thị xã có 38 trường với tổng số 35.868 học sinh. Đặc biệt trường kỹ thuật và dạy nghề Bảo Lộc (trước đây là Trường Nông Lâm Súc được thành lập từ năm 1959) đã có những tác động tích cực cho vùng sản xuất chuyên canh chè, cà phê, dâu tằm của thị xã.

Vấn đề chăm sóc sức khỏe của bà con cũng được đặt lên hàng đầu điển hình cho mạng lưới y tế đã được phát triển tận cơ sở xã phường và từng bước được xã hội hoá, chú trọng thay đổi phát triển.

Để có được thành tựu như ngày hôm nay, không thể nào quên được cuộc đấu tranh gian khổ của biết bao đồng chí, đồng bào trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ ngay tại mảnh đất Bảo Lộc xanh tươi này, máu tươi của các anh hùng lịch sử đã góp phần vun đắp cho sự trù phú, mạnh mẽ của Bảo Lộc như hiện tại.

Trong quá trình cai trị nước ta, bọn Pháp chiếm lại tỉnh Đồng Nai Thượng, lực lượng cách mạng đã chiến đấu anh dũng ngay tại đèo B’Lao, nhưng sau đó phải rút lui về phía Bình Thuận, do lực lượng chênh lệch quá lớn giữa 2 bên. Chính lúc này, phong trào cách mạng của Đồng Nai Thượng bắt đầu gặp khó khăn.

Tháng 02/1951, để phù hợp với tình hình chỉ đạo liên vùng, Chính phủ Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã quyết định hợp nhất 2 tỉnh Lâm Viên và Đồng Nai Thượng thành tỉnh Lâm Đồng, trong đó có 6 đội công tác vũ trang, tuyên truyền được thành lập, có 2 đội tập trung vào hướng Djiring và B’Lao.

Thời gian sau 1958, các hoạt động cách mạng cũng lại được tăng cường hơn trước và phong trào ngày càng lớn mạnh, lực lượng cũng lớn mạnh hơn trước.

Suốt quá trình kháng chiến chống Mỹ, dưới sự lãnh đạo của Ban cán sự Đảng Lâm Đồng, nhân dân, cán bộ, bộ đội Bảo Lộc đã đưa phong trào cách mạng lên đỉnh cao cả thế và lực, cả chính trị và quân sự, hạ gục không ít lực lượng của địch.

Đến tháng 4-1964, nhân dân Bảo Lộc nổi dậy biểu tình đòi Mỹ cút và lật đổ chế độ Trần Văn Hương, đòi lại hòa bình cho nhân dân ta.

Đầu năm 1968, quân dân Bảo Lộc đồng loạt tấn công các mục tiêu quan trọng của địch trong thị xã. Cho đến ngày 27-3-1975, Quân giải phóng đánh chiếm chi khu Đạ Huoai, đánh đồn Madagouil và sau đó tiến về Bảo Lộc, góp phần dọn sạch chướng ngại vật mà địch tạo ra.

Sau quá trình chiến đầu gian khổ thì vào lúc 8 giờ sáng ngày 28-3-1975, quân dân thị xã Bảo Lộc đã giải phóng hoàn toàn thị xã, bắt đầu bước sang trang sử mới – thời kỳ xây dựng hòa bình, mở ra một cuộc sống mới cho tất cả người dân tại nơi đây.

Trên đây là bài chia sẻ của Thiện Bình về chủ đề “Tổng quan Thành phố Bảo Lộc”, nếu anh chị có thắc mắc hay cần thêm thông tin gì hãy comment bên dưới nhé.

 

5/5 - (18 bình chọn)

Leave a Reply